

Thanh Hóa là tỉnh nông nghiệp lớn. Diện tích canh tác và nuôi trồng lớn kéo theo lượng phụ phẩm khổng lồ phát sinh mỗi năm. Theo số liệu ngành, sản lượng lương thực, quy mô chăn nuôi và thủy sản tạo ra hàng chục đến hàng trăm nghìn tấn phụ phẩm: rơm rạ, vỏ trấu, bã mía, bã sắn, chất thải chăn nuôi, bùn ao...
Trong nhiều năm, phần lớn phụ phẩm này chưa được xử lý hoặc tận dụng hiệu quả. Một lượng không nhỏ bị đốt hoặc chôn lấp; vừa gây ô nhiễm không khí, nguồn nước, vừa làm mất đi nguồn tài nguyên có thể tái sử dụng.
Để giảm gánh nặng cho môi trường và khai thác tiềm năng “vàng nâu” từ phế phẩm nông nghiệp, nhiều địa phương và doanh nghiệp trong tỉnh đã bắt đầu chuyển hướng sang mô hình tuần hoàn – tái sinh phụ phẩm.

Trên thực địa, nhiều mô hình đã chứng minh phụ phẩm có thể trở thành tài sản. Nhà máy mía đường Lam Sơn đã biến bã mía, lá mía thành nhiên liệu sinh khối. Hệ thống lò hơi chạy bã mía sản sinh hơi nước quay tua-bin phát điện, công suất nhà máy điện sinh khối trên 30MW. Điện dùng cho sản xuất; phần dư bán lên lưới.
Tro xỉ từ lò hơi được tận dụng làm nguyên liệu sản xuất phân bón hữu cơ. Qua đó, giảm phát thải khí nhà kính, tăng giá trị phụ phẩm và tạo nguồn thu cho nông dân vùng nguyên liệu.
Công ty phân bón Phúc Thịnh sử dụng mùn bã sắn, bã mía, than bùn, phân chuồng và tro lò để sản xuất phân hữu cơ vi sinh và hữu cơ khoáng. Sản phẩm giúp cải tạo đất, tăng năng suất cây trồng và mở thêm thị trường cho phân bón nội địa, giảm nhu cầu nhập khẩu phân hữu cơ.
Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình ở Thanh Hóa cũng đang tiên phong thực hành mô hình nông nghiệp tuần hoàn, trong đó mọi thứ đều được tái sử dụng theo vòng tròn khép kín, không rác thải, không lãng phí.
Như trang trại Thảo Hiền của chị Nguyễn Thị Hoan, ở thôn Én Giang, xã Quảng Ngọc. Trên diện tích gần một hecta, chị Hoan phát triển mô hình “vườn – ao – chuồng – giun quế” gắn kết với nhau, phụ phẩm từ trồng rau, dưa được ủ làm thức ăn cho giun; phân giun dùng bón cây; lá, cuống rau thừa tận dụng cho chăn nuôi gà, vịt; còn nước ao nuôi cá lại được lọc sinh học để tưới cây.

Chị Hoan chia sẻ: “Tôi gần như không bỏ đi thứ gì. Rác rau dùng cho gà, lợn ăn; phân của chúng lại dùng nuôi trùn; phân trùn thì ủ bón cây. Làm kiểu này tuy mất công hơn, nhưng không phải mua nhiều phân hóa học, đất màu mỡ hơn, cây khỏe, vật nuôi cũng lớn nhanh.” chị Hoan cho biết.
Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh hiện có Công ty Fuwa Biotech, một doanh nghiệp khởi nghiệp xanh tiêu biểu, đã tận dụng vỏ dứa bỏ đi sau chế biến để lên men enzyme sinh học, tạo ra chất tẩy rửa tự nhiên, an toàn cho sức khỏe và thân thiện môi trường. Các sản phẩm của Fuwa hiện không chỉ được người tiêu dùng trong nước đón nhận mà còn xuất khẩu sang nhiều quốc gia châu Á và châu Âu.
Anh Lê Duy Hoàng, người sáng lập Fuwa Biotech nhớ lại: “Trước đây, nhà tôi gần nhà máy chế biến dứa. Mỗi mùa thu hoạch, hàng tấn vỏ dứa bị vứt bỏ, tấp đống ngoài trời, bốc mùi chua khó chịu. Tôi luôn tự hỏi: thứ bị coi là rác này, nếu được xử lý đúng cách, liệu có thể trở thành thứ gì hữu ích hơn không?”

Cơ duyên đến khi anh Hoàng được tiếp cận công trình nghiên cứu về enzyme sinh học từ phế phẩm nông nghiệp của Tiến sĩ Rosukon Poompanvong (Thái Lan). Từ đó, anh bắt đầu hành trình nghiên cứu, thử nghiệm và cải tiến liên tục trong nhiều năm, với mong muốn biến phế phẩm nông nghiệp thành sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường.
“Tôi muốn tạo ra một sản phẩm vừa tốt cho sức khỏe, vừa giúp giảm gánh nặng rác thải nông nghiệp. Nếu người nông dân có thể sống tốt nhờ thứ từng bị coi là bỏ đi, thì đó mới là giá trị thật của nông nghiệp bền vững,” anh Hoàng chia sẻ.

Từ những mô hình nhỏ trên đồng ruộng, bờ ao, đến những nhà máy lớn như Lam Sơn hay Phúc Thịnh, một tư duy chung đang hình thành đó chính là mọi thứ đều có thể trở lại vòng tuần hoàn, không có gì thực sự bị bỏ đi.
Khi kinh tế tuần hoàn được hình thành, thu nhập của các hộ dân và doanh nghiệp từ đó mới được nâng cao. Thay vì bỏ phí phụ phẩm, người nông dân tận dụng chúng làm phân bón, thức ăn chăn nuôi hay nhiên liệu sinh khối; doanh nghiệp biến chúng thành nguyên liệu đầu vào cho các chuỗi sản xuất mới. Một vòng khép kín được tạo ra, giảm chi phí, tăng giá trị, và không để tài nguyên bị thất thoát.
Trước hết, kinh tế tuần hoàn giúp giảm chi phí và phụ thuộc đầu vào hóa học. Khi phụ phẩm được tái chế thành phân hữu cơ, thức ăn chăn nuôi hay nguồn năng lượng, nông hộ không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn cải thiện độ phì nhiêu của đất. Các mô hình ủ phân từ rơm rạ, bã sắn, phân chuồng… đang chứng minh điều đó trên thực tế.

Ngoài ra, tuần hoàn tạo giá trị gia tăng mới cho phụ phẩm. Lá, bã, tro, bùn, những thứ từng bị bỏ đi, nay trở thành nguyên liệu quý. Tại nhà máy đường Lam Sơn, bã mía được đốt tạo hơi nước, phát điện, còn tro xỉ tiếp tục được dùng sản xuất phân bón hữu cơ.
Ở Công ty Phúc Thịnh, mùn bã sắn và than bùn trở thành phân hữu cơ vi sinh giúp cải tạo đất, mở thêm thị trường cho phân bón nội địa. Những “vòng đời thứ hai” này không chỉ giảm phát thải mà còn mang lại lợi nhuận rõ rệt.
Song song với đó, kinh tế tuần hoàn góp phần bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm. Việc giảm đốt rơm rạ giúp cắt phát thải CO₂; sử dụng phân hữu cơ thay cho hóa học giúp hạn chế ô nhiễm đất, nước, đồng thời nâng cao tiêu chuẩn an toàn nông sản. Các mô hình nuôi tôm xen ghép (tôm–cua–cá–rong) ở Hoằng Phong và Quảng Chính là minh chứng sống động: không chỉ tận dụng chất thải tự nhiên mà còn giữ được năng suất ổn định, giá trị thương phẩm cao hơn.
Tuy nhiên, con đường nhân rộng kinh tế tuần hoàn còn nhiều thách thức. Vốn đầu tư cho công nghệ xử lý, dây chuyền ủ, hay lò hơi sinh khối vẫn lớn so với khả năng của nông hộ.
Thị trường tiêu thụ phân hữu cơ và chế phẩm sinh học chưa ổn định; người tiêu dùng còn e dè trước sản phẩm “xanh” giá cao. Bên cạnh đó, quy mô sản xuất nhỏ lẻ khiến việc thu gom, xử lý phụ phẩm chưa hiệu quả, còn thiếu các bộ tiêu chí và cơ chế giám sát”.

Tiến sĩ Nguyễn Trọng Quyền, Phòng Quản lý Khoa học – Viện Nông nghiệp Thanh Hóa cho biết: “Kinh tế tuần hoàn là cách tiếp cận thông minh để biến phụ phẩm thành tài nguyên, giúp nông dân tăng thu nhập mà vẫn bảo vệ môi trường. Nếu làm tốt, làm đúng quy trình, thì nguồn lợi thu từ phụ phẩm này rất lớn. Chẳng hạn như vỏ dứa có thể lên men, chiết xuất làm chất tẩy rửa sinh học, vừa an toàn, vừa có giá trị thương mại cao. Tương tự, rơm rạ, bã mía, hay bùn ao đều có thể tái sinh thành sản phẩm hữu ích nếu được xử lý đúng cách.”
Ông cũng cho rằng, rào cản lớn nhất hiện nay không nằm ở công nghệ, mà ở tư duy sản xuất của người nông dân. Do áp lực về chi phí và lợi nhuận ngắn hạn, nhiều hộ vẫn chọn cách làm cũ như đốt rơm rạ, xả thải ra môi trường hay chôn lấp phụ phẩm để “nhanh gọn”, thay vì đầu tư thời gian và công sức cho xử lý tuần hoàn. Ở một số nơi, dù đã có mô hình thí điểm, nhưng thiếu liên kết tiêu thụ và đầu ra ổn định nên người dân còn e dè, chưa mạnh dạn chuyển đổi.
“Muốn thay đổi, cần chính quyền địa phương, doanh nghiệp và hợp tác xã cùng vào cuộc. Khi người nông dân thấy được hiệu quả kinh tế thực sự, họ sẽ tự tin làm theo. Còn nếu chỉ tuyên truyền chung chung, không có đầu ra, thì kinh tế tuần hoàn vẫn sẽ dừng ở khẩu hiệu", Tiến sĩ Quyền nhấn mạnh.
“Không có gì bỏ đi” không phải là một khẩu hiệu mơ hồ. Ở Thanh Hóa, từ bã mía đến bùn ao, từ vỏ sắn đến rơm rạ… tất cả đều có thể trở thành nguồn tài nguyên mới, nếu được đặt đúng chỗ, được kết nối bằng công nghệ phù hợp, chuỗi liên kết vững vàng và chính sách hỗ trợ kịp thời.
Chìa khóa của hành trình này nằm ở tư duy chuyển đổi, coi nông dân là trung tâm, coi phụ phẩm là tài nguyên, và biến những giải pháp nhỏ, dễ làm thành thói quen bền vững. Khi đó, nông nghiệp xanh sẽ không chỉ là “màu lá” bên ngoài, mà trở thành “bộ rễ” vững chắc nuôi dưỡng tương lai cho vùng đất xứ Thanh.

Hà Khải