

Ngày 04/5/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Ngay sau đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhanh chóng tổ chức hai cuộc họp liên tiếp nhằm xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân, với mục tiêu trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9 đang diễn ra.
Tại tọa đàm "Để kinh tế tư nhân bứt phá theo Nghị quyết 68 – Những việc cần làm ngay" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức, nhiều ý kiến nhấn mạnh vai trò to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, hiện chiếm khoảng 50% GDP, đóng góp hơn 30% thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% lực lượng lao động, với hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động.

Còn tại tọa đàm “Kinh tế tư nhân: Động lực vươn mình từ Nghị quyết 68” diễn ra ngày 13/5, các chuyên gia cũng tiếp tục khẳng định vai trò then chốt của kinh tế tư nhân trong bối cảnh mới, đồng thời đưa ra nhiều kiến nghị nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế và rào cản pháp lý.
PGS.TS. Trần Quốc Toản, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nhận định rằng, Nghị quyết 68 là một văn kiện có ý nghĩa đặc biệt, thể hiện sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức của Đảng về vai trò thiết yếu của kinh tế tư nhân - xác định khu vực này là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tư duy phát triển.
Tuy nhiên, theo ông Toản, thực tế cho thấy kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế, bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính: (1) nhận thức chưa đầy đủ và thống nhất về vai trò của khu vực tư nhân; (2) thể chế, chính sách và bộ máy thực thi còn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; và (3) nội lực của khu vực tư nhân còn yếu, chưa đủ mạnh để trở thành trụ cột kinh tế.

Đồng quan điểm, TS. Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, cho rằng, kinh tế tư nhân tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều điểm yếu cốt lõi. Ông nhấn mạnh, Nghị quyết 68 là bước đi quan trọng thể hiện chủ trương thúc đẩy mạnh mẽ khu vực tư nhân, song cũng cảnh báo rằng không nên kỳ vọng một nghị quyết đơn lẻ có thể tạo ra bước đột phá nếu không có sự triển khai thực chất và đồng bộ.
“Nếu thể chế và bộ máy Chính phủ không thực sự chuyển biến về chất lượng, Việt Nam có thể đi vào vết xe đổ của các nước Đông Nam Á - nơi từng kỳ vọng lớn vào khu vực tư nhân nhưng lại không đạt được thành công”, ông Nghĩa lưu ý.

Theo đánh giá của các chuyên gia, trong khi các quốc gia Đông Bắc Á đạt được nhiều thành công về phát triển kinh tế, thì phần lớn các nước Đông Nam Á lại không đạt được kỳ vọng, đặc biệt là những "rồng con" từng được dự đoán sẽ bứt phá. Thực tế này cho thấy thể chế và chất lượng điều hành mới là yếu tố then chốt quyết định sự thành bại của một quốc gia.
TS. Lê Xuân Nghĩa chỉ ra rằng một trong những thất bại lớn của 4 quốc gia Đông Nam Á nằm ở cấu trúc tài chính. Việc tư nhân hóa toàn bộ hệ thống ngân hàng và sự lệ thuộc vào bất động sản đã dẫn đến hệ quả tiêu cực: nhiều ngân hàng nhỏ ra đời, cạnh tranh gay gắt để huy động vốn, nhưng phần lớn nguồn vốn lại chảy vào lĩnh vực bất động sản. Sự cạnh tranh này khiến lãi suất bị đẩy lên rất cao, dao động từ 12-15%.
“Với mức lãi suất như vậy, không một nền công nghiệp non trẻ nào có thể phát triển. Chi phí vốn cao khiến doanh nghiệp sản xuất bị bóp nghẹt và làm lệch hướng ưu tiên phát triển của nền kinh tế,” ông Nghĩa phân tích.

Không chỉ tín dụng ngân hàng, ngay cả kênh trái phiếu doanh nghiệp cũng chủ yếu phục vụ cho bất động sản. Dù có một số doanh nghiệp nỗ lực phát hành trái phiếu để đầu tư vào các lĩnh vực khác, nhưng thực tế họ vẫn gặp rất nhiều khó khăn do cơ cấu tài chính chưa bền vững.
TS. Lê Xuân Nghĩa cảnh báo rằng cấu trúc tài chính của Việt Nam hiện nay đang mang nhiều nét tương đồng với các nước Đông Nam Á trước đây, khi quá chú trọng vào bất động sản. Nếu Việt Nam muốn hướng đến một nền kinh tế công nghiệp hiện đại và phát triển bền vững, cần có sự chuyển hướng rõ ràng trong ưu tiên đầu tư - từ bất động sản sang sản xuất và công nghiệp.
Một vấn đề khác là sự thiếu hụt nguồn lực tài chính cho khu vực tư nhân trong việc đầu tư vào nghiên cứu khoa học và công nghệ. Khác với các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Đài Loan hay Nhật Bản - nơi Chính phủ đóng vai trò chủ lực trong việc tài trợ kinh phí cho nghiên cứu và phát triển - tại Việt Nam, khu vực tư nhân gần như phải tự xoay sở trong khi tiềm lực còn hạn chế.


Bà Bùi Thu Thủy, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp (thuộc Bộ Tài chính), nhận định rằng, chưa bao giờ tiến trình thể chế hóa lại diễn ra nhanh chóng như hiện nay. Từ Nghị quyết 57 đến Nghị quyết 68, Việt Nam đã có một bước tiến vượt bậc. Tính đến thời điểm này, hai nội dung lớn của Nghị quyết 68 đã được thể chế hóa, bao phủ phần lớn trọng tâm của nghị quyết. Quốc hội cũng đã xác lập khoảng 9 nhóm giải pháp cụ thể, được đưa vào triển khai ngay.
Chương trình hành động dự kiến sẽ bao gồm khoảng 50 nhiệm vụ được giao cho các bộ, ngành, trong đó phần lớn phải hoàn tất trong năm 2025. Các dự thảo luật chưa kịp trình tại kỳ họp thứ 9 sẽ phải trình tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10 tới. Một số nội dung cần thêm thời gian có thể được lùi sang năm 2026.
Theo bà Thủy, mặc dù Nghị quyết 68 có tầm nhìn đến năm 2045, nhưng các nhiệm vụ then chốt đều được tập trung hoàn thành trong hai năm tới, thể hiện tinh thần khẩn trương tương tự Nghị quyết 57. Mục tiêu là đến cuối năm 2025, công tác thể chế hóa cơ bản phải hoàn tất.

Còn theo ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc Ngân hàng ACB, nếu những vướng mắc về quy định được kịp thời tháo gỡ, sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực lan tỏa trong toàn bộ cộng đồng doanh nghiệp.
Đồng quan điểm về sự cấp thiết trong triển khai, chuyên gia kinh tế Phan Đức Hiếu, đại biểu Quốc hội khóa XV, cho rằng, quá trình thể chế hóa Nghị quyết cần được tiến hành khẩn trương, không thể kéo dài. Theo ông Hiếu, có ba nhóm công việc cần xác định rõ ưu tiên nhóm nào, mức độ nào.
Nhóm thứ nhất, phải sửa đổi hoặc bãi bỏ một số luật lệ, quy định. Tuy nhiên, bước này không thể thực hiện ngay mà có thể cần thêm thời gian, dự kiến khoảng 7 tháng.
Nhóm thứ hai, tiếp tục sửa đổi, bãi bỏ các quy định. Trong bối cảnh hiện nay, khi Chính phủ đã trình trên 30 dự thảo luật tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 9, chúng ta không thể chậm trễ thêm nữa. Những nội dung chưa đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết hoặc chưa được cập nhật trong các dự thảo luật thì cần được bổ sung ngay sau khi Nghị quyết ban hành.
Nhóm thứ ba, với những quy định pháp luật mà hiện chưa trình ra Quốc hội, bây giờ mới bắt đầu triển khai, có thể áp dụng một Nghị quyết của Quốc hội mang tính quy phạm để tổ chức triển khai thực hiện, dự kiến sẽ trình tại kỳ họp thứ 9. Điều quan trọng là phạm vi nghị quyết cần mở rộng để tích hợp tối đa nhóm giải pháp, vấn đề, gia tăng hiệu suất và tính thực thi của các nghị quyết do Bộ Chính trị đề ra.
