
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, sản xuất và tiêu dùng bền vững đã trở thành xu hướng không thể đảo ngược. Trên hành trình chuyển đổi này, nhãn sinh thái được ví như “tấm hộ chiếu xanh”, vừa giúp doanh nghiệp mở cửa thị trường, vừa mang đến cho người tiêu dùng một cơ sở lựa chọn an toàn, thân thiện và minh bạch.

Tại tọa đàm thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái ngày 27/8/2025, ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, nhấn mạnh rằng chuyển đổi xanh là xu thế toàn cầu. Cả thế giới đang đối mặt cùng lúc ba cuộc khủng hoảng lớn về môi trường, từ biến đổi khí hậu đến ô nhiễm và suy thoái hệ sinh thái.

Việt Nam không nằm ngoài guồng quay ấy, song chúng ta đã xây dựng khung chính sách khá đầy đủ, từ Văn kiện Đại hội XIII, Nghị quyết 24 cho đến Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn và đặc biệt là Chương trình Nhãn sinh thái được triển khai từ năm 2009, ông Thắng cho biết.
Đáng chú ý, nhận thức tiêu dùng của người dân Việt Nam cũng thay đổi rõ rệt. Các khảo sát cho thấy có tới 86% người sẵn sàng chi thêm tiền để mua sản phẩm thân thiện môi trường, và 62% người được hỏi thừa nhận quyết định mua sắm của họ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cam kết xanh của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy cơ hội để nhãn sinh thái phát triển là không nhỏ, đặc biệt khi nhiều thị trường nhập khẩu lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản hay Trung Quốc đã siết chặt tiêu chuẩn môi trường trong thương mại quốc tế.

Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam lại cho thấy bức tranh chưa thật sự sáng. Hơn 20 năm qua, số sản phẩm được chứng nhận nhãn xanh vẫn rất hạn chế. Tính đến năm 2017, cả nước mới xây dựng được 17 tiêu chí, trong đó có 7 tiêu chí áp dụng cho 112 sản phẩm; giai đoạn 2024 - 2025 chỉ bổ sung thêm 13 sản phẩm được cấp nhãn. Một phần nguyên nhân là do người tiêu dùng trong nước vẫn chú trọng nhiều hơn tới vấn đề an toàn thực phẩm, trong khi chi phí công nghệ, thủ tục hành chính và năng lực sản xuất xanh của doanh nghiệp còn hạn chế.
Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ TN&MT), thừa nhận rằng nhãn sinh thái là công cụ chính sách được nhiều quốc gia áp dụng thành công, giúp doanh nghiệp chuyển đổi sản phẩm, đồng thời định hướng người tiêu dùng đến lối sống lành mạnh, bền vững. Ở Việt Nam, cơ sở pháp lý cho nhãn xanh đã hình thành từ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, 2014 và được hoàn thiện trong Luật 2020. Năm 2009, chương trình thí điểm tập trung vào hai nhóm: sản phẩm gắn nhãn xanh Việt Nam và túi ni lông thân thiện môi trường. Một số doanh nghiệp đã được chứng nhận, song con số này vẫn khá khiêm tốn.

Theo ông Nam, rào cản lớn nhất là năng lực doanh nghiệp trong nước chưa đủ mạnh để đáp ứng tiêu chí, trong khi chính sách hỗ trợ, ưu đãi còn dừng ở mức khung luật, thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể. Đơn cử, Luật Bảo vệ môi trường quy định mức thuế 40.000 đồng/kg túi ni lông khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất. Nhưng thực tế, nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn tìm cách trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi này.
Điểm sáng là Luật năm 2020 đã hợp nhất các quy định thành một hệ thống nhãn sinh thái thống nhất và có thêm ưu đãi đối với sản phẩm, dịch vụ xanh. Các dự án đầu tư công khi đấu thầu cũng bắt đầu ưu tiên sản phẩm thân thiện môi trường, mở ra hy vọng thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạnh hơn vào sản xuất bền vững.

Mặc dù khung chính sách đã được thiết lập, việc triển khai nhãn sinh thái ở Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân đến từ cả ba phía: doanh nghiệp, thị trường tiêu dùng và cơ chế chính sách.
PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, Nghiên cứu viên cao cấp Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, nhấn mạnh vai trò then chốt của doanh nghiệp. Để đạt chứng nhận nhãn sinh thái, doanh nghiệp phải đầu tư toàn diện từ khâu nguyên liệu, sản xuất đến quy trình quản lý và nâng cao nhận thức. Ông lấy ví dụ, một thỏi son làm từ hoa hồng được gắn nhãn sinh thái tại châu Âu có giá bán cao gấp nhiều lần sản phẩm thông thường, bởi phía sau đó là cả hệ thống công nghệ và tiêu chuẩn khắt khe. Hay như sản phẩm màn hình máy tính của Nhật Bản, để đạt từ ISO 9.000 đến ISO 14.000 gắn với nhãn sinh thái, doanh nghiệp phải bỏ ra khoản chi phí khổng lồ cho cải tiến công nghệ.

Ở góc độ thị trường, cần đẩy mạnh truyền thông và xây dựng hình ảnh để thu hút người tiêu dùng. Một sản phẩm xanh chỉ thực sự tồn tại bền vững khi có người mua sẵn sàng trả tiền cho giá trị môi trường mà nó mang lại. Tuy nhiên, thị trường sản phẩm xanh tại Việt Nam hiện nay chưa định hình rõ, mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu.
Một nguyên nhân khác là chính sách còn chậm đi vào thực tiễn. PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh cho rằng, dù Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn đã thể hiện rõ định hướng chuyển đổi xanh, nhưng vẫn còn nhiều điểm nghẽn. Các chính sách thiếu sự liên kết, chưa tạo ra cơ chế đủ mạnh và minh bạch để doanh nghiệp có thể hiểu và áp dụng dễ dàng. Vì vậy, cần những chính sách đặc thù và mang tính thời điểm, chẳng hạn ưu đãi thuế, hỗ trợ vốn, nhằm khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào sản phẩm xanh.
Theo ông Nguyễn Trung Thắng, phát triển thị trường nhãn sinh thái phải dựa trên một nhóm giải pháp tổng thể, vừa kích cầu tiêu dùng, vừa hỗ trợ nguồn cung. Nghĩa là Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi, doanh nghiệp phải nâng cao năng lực sản xuất, và người tiêu dùng cần thay đổi thói quen để ủng hộ sản phẩm xanh.
Có thể thấy, nhãn sinh thái không chỉ đơn thuần là một biểu tượng dán trên bao bì sản phẩm. Đó là sự cam kết của doanh nghiệp, là lựa chọn thông minh của người tiêu dùng và cũng là minh chứng cho trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng một nền kinh tế xanh, tuần hoàn. Khi ba yếu tố này kết nối chặt chẽ, “tấm hộ chiếu xanh” sẽ phát huy đúng vai trò, giúp hàng hóa Việt Nam vững vàng hơn trên thị trường quốc tế và đồng thời đem lại lợi ích lâu dài cho sức khỏe cộng đồng cũng như môi trường sống.
Trần Huyền