
Rác thải nhựa tại Việt Nam ngày càng gia tăng cùng với tốc độ phát triển kinh tế. Theo báo cáo SWITCH-Asia (Chương trình thúc đầy Sản xuất và Tiêu dùng bền vững của Liên minh châu Âu), mỗi năm nước ta phát sinh khoảng 3,8 triệu tấn rác thải nhựa, tương đương 38,7 kg/người, cao hơn mức trung bình toàn cầu (32kg/người).
Tuy nhiên, chỉ khoảng 27% lượng rác này được tái chế; phần còn lại chủ yếu bị chôn lấp hoặc đốt, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ô nhiễm nhựa không chỉ trên đất liền mà còn lan ra biển, khiến Việt Nam đứng thứ tư thế giới về nhựa thải ra đại dương, khoảng 28.221 tấn/năm (WEF, 2023).
PGS.TS Vũ Thanh Ca, nguyên giảng viên Đại học Tài nguyên và Môi trường, nhận định: “Tỷ lệ tái chế nhựa hiện chỉ trên 10%, có sản phẩm gần 100% như chai nước, nhưng hộp xốp hay nhựa dùng một lần gần như không tái chế". Thực trạng này cho thấy khoảng cách lớn giữa tiềm năng và hiệu quả tái chế, khiến nhiều loại nhựa tồn tại lâu dài trong môi trường.
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm giảm rác thải nhựa, khuyến khích tái chế, tái sử dụng, phát triển hệ thống thu gom và xử lý rác đồng thời thúc đẩy sản phẩm “xanh”. Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định lộ trình hạn chế nhựa dùng một lần và bao bì khó phân hủy: từ 1/1/2026 cấm sản xuất, nhập khẩu túi nilon khó phân hủy nhỏ hơn 50x50 cm; sau 31/12/2030 dừng toàn bộ sản phẩm nhựa dùng một lần, trừ một số trường hợp xuất khẩu hoặc chứng nhận sinh thái Việt Nam.
Nghị định 45/2022/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong môi trường cũng nâng cao nhận thức cộng đồng, dù chưa áp dụng xử phạt hành vi không phân loại rác tại nguồn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, hiện nay Việt Nam hạ tầng tái chế còn chưa đồng bộ, năng lực công nghệ còn hạn chế, tỷ lệ thu gom và phân loại rác thấp. Kết quả, nhiều loại nhựa khó tái chế tồn tại trong môi trường, đồng thời lượng nhựa nhập khẩu vẫn tăng, đặt ngành nhựa trước áp lực lớn.

Trong bối cảnh này, Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) kiến nghị thành lập các KCN KTTH chuyên ngành nhựa. Đây không chỉ là mô hình sản xuất mới mà còn tạo hành lang pháp lý, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ tái chế tiên tiến. Chuỗi sản xuất – tái chế – xử lý nhựa khép kín giúp nâng tỷ lệ tái chế lên 70–80%, giảm phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, tiết kiệm chi phí và nâng giá trị ngành nhựa.

Việc thành lập KCN KTTH là giải pháp quan trọng giúp giảm phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, vốn chiếm 60–70% tổng nhu cầu ngành nhựa. Theo Ngân hàng Thế giới, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu, lên đến 79,7%. Nhựa dùng một lần, hộp xốp hay nhựa khó tái chế gần như không được xử lý hiệu quả, dẫn tới thất thoát khoảng 2,2–2,9 tỷ USD/năm, tương đương 75% giá trị vật liệu nhựa.
Nhập khẩu nguyên liệu không chỉ tăng chi phí mà còn làm ngành dễ bị ảnh hưởng bởi biến động giá, chính sách nước ngoài và rủi ro chuỗi cung ứng. KCN KTTH ngành nhựa trở thành giải pháp chiến lược, vừa giảm nhập khẩu, vừa nâng cao giá trị nội địa và tạo chuỗi sản xuất bền vững.

Các chuyên gia đánh giá, điểm nổi bật của KCN KTTH là tích hợp toàn bộ chuỗi giá trị nhựa trong hệ sinh thái khép kín. Doanh nghiệp tận dụng nhựa tái chế và nguyên liệu thứ cấp nội địa, vừa kiểm soát chất lượng, vừa đảm bảo nguồn cung.
Công nghệ tiên tiến như phân loại tự động, tái chế cơ học – hóa học, nhiệt phân và tái sinh năng lượng giúp xử lý hầu hết nhựa khó tái chế, từ hộp xốp, nhựa pha nhiều loại đến chai PET đã qua sử dụng. Nhờ đó, tỷ lệ tái chế nhựa có thể đạt 70–80%, vượt xa mức 27% hiện nay.
Nguyên liệu tái chế nội địa giảm nhập khẩu, tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu. Nếu Việt Nam nâng tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu nhựa lên 60–70% trong 5 năm, ngành nhựa có thể tiết kiệm hàng trăm triệu USD/năm, tăng giá trị nội địa và giảm áp lực ngoại tệ.

KCN KTTH còn mang lại tác động môi trường tích cực. Thu gom và tái chế rác nhựa giúp hạn chế nhựa thải ra môi trường, giảm áp lực bãi chôn lấp và ô nhiễm đại dương. Hệ sinh thái tuần hoàn biến rác thải nhựa thành nguyên liệu giá trị, đồng thời tạo cơ sở cho sản phẩm nhựa “xanh” được chứng nhận, nâng uy tín doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Ngoài lợi ích kinh tế – môi trường, KCN KTTH tạo việc làm, nâng cao năng lực công nghệ và thúc đẩy chuỗi giá trị bền vững. Ông Hoàng Đức Vượng, Phó Chủ tịch VPA, Chủ tịch HĐQT VietCycle, nhấn mạnh: “Những ‘chiến binh xanh’ ở tuyến đầu chưa được bảo vệ về chính sách an sinh tối thiểu. Nếu không có khung pháp lý công nhận, chuỗi giá trị này sẽ đứt gãy”.
Việc hình thành các KCN KTTH sẽ đưa hoạt động thu gom, phân loại và tái chế vào hệ thống chính quy, minh bạch và đạt chuẩn, tạo cơ hội việc làm ổn định, an toàn, đồng thời thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân. Qua đó, các khu công nghiệp tuần hoàn góp phần hình thành một lực lượng lao động “xanh”, trực tiếp tham gia vào chuỗi sản xuất bền vững, đáp ứng xu hướng phát triển toàn cầu, nơi yếu tố môi trường và xã hội được đặt song hành cùng mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
KCN KTTH là chiến lược then chốt để tăng giá trị ngành nhựa từ giảm nhập khẩu. Kết hợp chính sách hỗ trợ, công nghệ tiên tiến và chuỗi sản xuất khép kín, Việt Nam có thể xây dựng ngành nhựa bền vững, tiết kiệm chi phí, nâng giá trị nội địa và hướng tới phát triển xanh, cạnh tranh quốc tế.

KCN KTTH ngành nhựa không chỉ phụ thuộc vào hạ tầng hay công nghệ. Nếu thiếu cơ chế, chính sách định hướng, doanh nghiệp sẽ khó vượt qua các rào cản lớn: vốn đầu tư hạn chế, chi phí công nghệ cao, hoạt động thu gom – tái chế nhỏ lẻ và phân tán. Khi đó, giá trị nhựa tiếp tục bị thất thoát và vòng tuần hoàn khó hình thành. Chính vì vậy, cơ chế, chính sách trở thành “điều kiện đủ” để thúc đẩy sự chuyển mình từ mô hình tái chế truyền thống, nhỏ lẻ sang các dự án quy mô lớn, công nghệ cao.

Trước hết, chính sách tiêu chuẩn hóa sản phẩm và thiết kế bao bì là nền tảng để hình thành thị trường tái chế bền vững. Tiêu chuẩn nhựa tái chế không chỉ đảm bảo chất lượng và an toàn mà còn giúp doanh nghiệp có sản phẩm cạnh tranh. Khung pháp lý về bao bì dễ tái chế tạo động lực thay đổi vật liệu và cấu trúc, phá vỡ vòng luẩn quẩn “tái chế khó – chi phí cao”.
Bà Nguyễn Thị Bích Vân, Chủ tịch Unilever Việt Nam, cảnh báo: “Việt Nam đang bỏ lỡ cơ hội kinh tế lớn nếu không đồng bộ hóa thiết kế bao bì, nâng cao nhận thức cộng đồng và hoàn thiện chính sách hỗ trợ".
Tiếp đó, đầu tư công nghệ xanh đòi hỏi chi phí ban đầu cao – đặc biệt với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ khi có cơ chế ưu đãi tài chính, tín dụng xanh, hỗ trợ thuế và hạ tầng, doanh nghiệp mới giảm được rủi ro và dám mạnh dạn đầu tư.
Liên quan vấn đề này, Phó Chủ tịch VPA, Chủ tịch HĐQT VietCycle Hoàng Đức Vượng khuyến nghị: “Doanh nghiệp có thể chấp nhận chi phí ban đầu để đổi lấy sản phẩm thân thiện môi trường, tiết kiệm tài nguyên và chịu trách nhiệm với thế hệ sau.”
Một mắt xích khác là phân loại rác tại nguồn – yếu tố quyết định chất lượng nguyên liệu tái chế. Nếu rác sinh hoạt còn lẫn tạp chất, chi phí tái chế sẽ tăng cao, năng suất giảm. Vì vậy, cần có các quy định bắt buộc phân loại, đồng thời mở mã hồ sơ cho hạt nhựa tái chế và khuyến khích cộng đồng tham gia.

Bà Huỳnh Thị Mỹ, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VPA, khẳng định: “Đẩy mạnh thu gom và phân loại rác tại hộ gia đình là mấu chốt để ngành nhựa có nguyên liệu đầu vào sạch, chất lượng đầu ra đảm bảo và giảm chi phí tái chế.”
Cuối cùng, cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả là công cụ không thể thiếu. Báo cáo định kỳ về tỷ lệ tái chế, chất lượng sản phẩm và hiệu quả tài chính vừa giúp minh bạch trách nhiệm doanh nghiệp, vừa tạo cơ sở điều chỉnh chính sách phù hợp, bảo đảm KCN KTTH phát triển xanh, tuần hoàn và bền vững.
Cơ chế và chính sách không chỉ tháo gỡ rào cản về vốn, công nghệ, thu gom và phân loại rác, mà còn đóng vai trò “chìa khóa” để KCN KTTH ngành nhựa vận hành hiệu quả, lan tỏa lợi ích kinh tế – xã hội – môi trường, nâng cao giá trị nội địa và sức cạnh tranh quốc tế.
Khánh Ly